Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân huyện đảo Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng _Ảnh: Tư liệu
Cơ sở khoa học - thực tiễn nhận diện tiêu chí xã hội văn minh ở Việt Nam qua gần 40 năm đổi mới
Xây dựng xã hội văn minh là một trong những định hướng quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, tuy cụm từ “xã hội văn minh” chưa được đề cập trực tiếp trong các cương lĩnh, sách lược,… của Đảng, nhưng qua tôn chỉ, mục tiêu đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân, giải phóng dân tộc để thiết lập một xã hội độc lập, dân chủ; xóa bỏ giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, nơi mọi người đều có quyền sống tự do, hạnh phúc; đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và phong trào cách mạng trên thế giới, cùng xây dựng một cộng đồng quốc tế văn minh… chính là những nền móng tư tưởng quan trọng để Đảng ta tiếp tục định hướng mục tiêu xây dựng xã hội văn minh trong hơn 90 năm qua.
Bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta đã xác định đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Tại Đại hội VII của Đảng, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) (Cương lĩnh năm 1991), đã xác định rõ phương hướng “xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”(1). Đến năm 1993, xây dựng xã hội văn minh đã được nâng lên, coi là mục tiêu - “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”(2). Đây là lần đầu tiên, xây dựng xã hội văn minh chính thức được xác định là mục tiêu của đổi mới. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa, xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phấn đấu vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Năm 2011, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(3). Giữa Cương lĩnh năm 1991 với Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 có những bước bổ sung, phát triển về mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên, mục tiêu văn minh không thay đổi. Gần đây nhất, chủ trương và quyết tâm xây dựng xã hội văn minh ở Việt Nam cũng được thể hiện rõ trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2024) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”. Tại buổi trao đổi chuyên đề “Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” ngày 25-11-2024, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Cùng với việc đề ra mục tiêu của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã từng bước được xác định. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định các đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta là xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện… Đồng thời, tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng được xác định. Quá trình xây dựng xã hội văn minh ở Việt Nam thực chất chính là quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, xã hội văn minh Việt Nam là văn minh xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được chính là những thành tựu quan trọng trong quá trình thực hiện hệ mục tiêu tổng quát của công cuộc đổi mới, trong đó có mục tiêu “văn minh”, xây dựng xã hội văn minh. Do đó, các tiêu chí cơ bản cần nhận diện cũng không thể nằm ngoài phương hướng, mục tiêu và các đặc trưng cơ bản của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội.
Nhận diện một số tiêu chí cơ bản của xã hội văn minh ở Việt Nam qua gần 40 năm đổi mới
Ở Việt Nam, trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, trên cơ sở gắn với những đặc điểm đặc thù về thể chế chính trị, về định hướng con đường phát triển của Việt Nam, một số tiêu chí cơ bản của xã hội văn minh được nhận diện với những luận giải bước đầu như sau:
Tiêu chí nhận diện về mặt chính trị:
Một là, đất nước được thống nhất, có hòa bình, có độc lập, tự chủ.
Trong bối cảnh hiện nay, các nhận thức mới về xã hội văn minh trên khía cạnh chính trị gắn liền với những nhận thức mới về các giá trị thống nhất, độc lập, tự chủ, hòa bình,… Bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, các cuộc xung đột vũ trang có thể xảy ra giữa các quốc gia bất cứ lúc nào, vì bất cứ lý do nào, đó không chỉ là sự xâm phạm lãnh thổ biên giới, mà còn là những xung đột xuất phát từ bất đồng trong quan điểm chính trị, tranh chấp về kinh tế - thương mại, xung đột về sắc tộc, tôn giáo,... Do đó, thống nhất, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, tự chủ, hòa bình là yếu tố bảo đảm đầu tiên của một xã hội văn minh. Không có văn minh trong một đất nước không được thống nhất về lãnh thổ, không có hòa bình, độc lập, bởi những điều này đồng nghĩa với không có chủ quyền dân tộc, không có công bằng, bình đẳng, không có tự do, hạnh phúc,...
Trong những năm gần đây, đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, thông tin - truyền thông, nhận thức về độc lập dân tộc cũng không chỉ là giữ vững độc lập, chủ quyền về biên giới lãnh thổ đất liền, lãnh hải, trên không… mà còn là chủ quyền trên không gian mạng, là “sức mạnh mềm” của chủ quyền văn hóa, vị thế, tiềm lực, uy tín đất nước trên trường quốc tế.
Hai là, có hệ thống chính trị dân chủ, kỷ cương.
Trong lịch sử nhân loại, dân chủ vừa là thể chế nhà nước với sự thừa nhận quyền lực thuộc về người dân, vừa là một giá trị xã hội. Xã hội thiếu dân chủ chính là sự phản tiến bộ, phản văn minh. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. V.I. Lê-nin từng nói: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”(4). Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện được những giá trị phổ quát nhất của nhân loại, vừa thể hiện được những giá trị dân chủ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trong gần 95 năm qua, kế thừa tư tưởng “lấy dân làm gốc”, Đảng ta đã vừa giáo dục cho cán bộ, nhân dân “ý thức dân chủ”, coi đây là nền tảng vững, là gốc rễ chắc cho một nền dân chủ, vừa nỗ lực xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh năm 1991 nhấn mạnh, thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Như vậy, mục tiêu của hệ thống chính trị nước ta là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Như vậy, Đại hội XI của Đảng đã xác định “dân chủ” với vị trí nền tảng để thực hiện công bằng, hướng tới văn minh: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(5). Nhìn chung, trong gần 40 năm đổi mới, Đảng đã nhận thức ngày càng rõ vai trò của dân chủ và sự cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm tôn trọng, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để người dân tham gia vào quá trình ra các quyết định quan trọng.
Kỷ cương chính là biện pháp cần thiết để dân chủ được thực hiện đúng. Từng vấn đề đều được thảo luận dân chủ, công khai, nhưng “không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cũng chỉ là để bàn cách thực thi cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy”(6). Do đó, “Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật”(7) là nguyên tắc mà mỗi cá nhân, tổ chức đều phải tuân thủ. Kết hợp chặt chẽ giữa phát huy dân chủ và tăng cường kỷ luật trong Đảng, kỷ cương trong xã hội là biểu hiện của một xã hội văn minh(8). Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu “cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt” 10 mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(9).
Việc thực hiện dân chủ ngày càng được bảo đảm cùng với quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng bảo đảm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nhất là Luật Thực hiện dân chủ cơ sở. Đặc biệt, các cơ quan công quyền đã thực hiện cải cách hành chính mạnh mẽ, xây dựng cơ chế chịu trách nhiệm trước người dân, thiết lập cơ chế giám sát nhằm bảo đảm hoạt động minh bạch, hiệu quả.
Tiêu chí về mặt kinh tế:
Một là, nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển kinh tế nhanh và bền vững là kết quả của quá trình phát triển kinh tế ổn định với tốc độ tăng trưởng cao, không gây hại đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên; giữ lạm phát ở mức độ hợp lý, không có nợ công tăng cao, ứng phó hiệu quả trước các suy thoái kinh tế, quyền lợi chính đáng của người lao động được bảo vệ, khoảng cách giàu - nghèo, bất bình đẳng thu nhập được giảm thiểu, phân phối lợi ích ngày càng công bằng, tài nguyên được sử dụng bền vững, môi trường được bảo vệ, hệ sinh thái được phục hồi, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế bằng nội lực, mọi người dân được hưởng chung kết quả phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện kết cấu hạ tầng xã hội, như giao thông, vận chuyển, tiện ích công cộng, các dịch vụ y tế, giáo dục, an sinh xã hội, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực đời sống xã hội. Đối với các chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, cần có cơ chế đãi ngộ thỏa đáng, công bằng, bảo đảm sự phân phối tài sản và thu nhập bù đắp được sức lao động và có dư để tái tạo sức lao động.
Để xây dựng xã hội văn minh trong bối cảnh mới hiện nay, không thể không gắn liền với phát triển khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực khoa học - công nghệ… Đây không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng xã hội văn minh với các tiêu chí về sự phát triển khoa học - công nghệ, mà còn là nhiệm vụ quan trọng để đưa đất nước vượt qua nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Vấn đề này đã bước đầu được làm rõ trong bài viết “Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” của GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm. Từ tiêu đề bài viết, đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ những yếu tố quan trọng để phát triển nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay chính là yêu cầu về phát triển bền vững với chủ trương phát triển khoa học - công nghệ, phát triển “nền kinh tế số”. Phát triển bền vững kết hợp với chuyển đổi số tạo ra một lực lượng sản xuất mới, từ đó xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp, đồng thời tác động đến nền kinh tế (hình thành các mô hình kinh tế mới, như kinh tế chia sẻ, kinh tế số, thương mại điện tử và kinh tế tuần hoàn,…), làm thay đổi cơ cấu xã hội (tầng lớp trung lưu với những nghề nghiệp gắn với khoa học công nghệ gia tăng; bộ phận nông dân - trí thức hình thành do phương thức sản xuất chuyển từ thuần nông sang nông nghiệp công nghệ cao với phương thức sản xuất ngày càng hiện đại hóa,…), thay đổi cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu lao động (yêu cầu về lực lượng lao động có kỹ năng cao gia tăng; nhiều ngành nghề truyền thống bị ảnh hưởng hoặc thay thế bởi công nghệ,...) dẫn đến sự dịch chuyển, thậm chí, có thể dẫn đến một cuộc tái cấu trúc thị trường lao động và cơ cấu nền kinh tế. Do đó, cần làm rõ “trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải không ngừng được điều chỉnh để phù hợp với trình độ ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển tiến bộ của toàn bộ phương thức sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước”(10).
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nhận diện mang tính riêng đặc trưng của xây dựng xã hội văn minh ở Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới xét trên tiêu chí kinh tế là chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(11). Như vậy, mục tiêu phát triển kinh tế đã thực sự trở thành đa mục tiêu, không chỉ cải thiện đời sống vật chất, cải thiện năng suất lao động, nâng cao chất lượng lực lượng sản xuất mà còn được xác định gắn liền với nhiều mục tiêu khác, “vì sự phát triển bền vững của xã hội, vì cuộc sống văn minh, hạnh phúc của con người. Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng”(12). Định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở các tiêu chí về mặt kinh tế được coi là những cơ sở quan trọng để thực hành dân chủ và thực hiện công bằng, bình đẳng, giảm khoảng cách giàu nghèo, hạn chế xung đột xã hội, tránh nguy cơ bất ổn xã hội. Và đó chính là những đặc điểm mang tính riêng của tiêu chí kinh tế trong tổng thể mục tiêu xây dựng xã hội văn minh ở Việt Nam.
Ba là, “dân giàu”, “nước mạnh”.
Qua nhiều kỳ đại hội, mục tiêu “dân giàu” luôn được xác định song hành với “nước mạnh” cùng với chủ trương và hệ thống chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển, phát triển kinh tế đồng bộ, hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thời gian qua, Việt Nam đã từng bước tạo điều kiện để mọi người dân đều được khuyến khích đóng góp, làm giàu cho bản thân, gia đình và đất nước. Và một trong những yếu tố nhận diện không thể thiếu, không thể thay thế của xã hội văn minh là quốc gia “giàu mạnh”, người dân “giàu có”. Việt Nam đã xác định định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế, và định hướng này đóng vai trò quan trọng quyết định thành quả đạt được, đó không chỉ là những chỉ số về kinh tế, còn là chỉ số phát triển xã hội, chỉ số phát triển con người, là tài nguyên được sử dụng bền vững, môi trường được bảo vệ, hệ sinh thái được phục hồi; các thành quả của phát triển kinh tế phải trở thành nguồn lực, phải tái đầu tư bảo vệ môi trường sống, tái thiết xã hội ở mức độ phát triển cao hơn; nền kinh tế phải mang tính hiện đại với lực lượng sản xuất có trình độ cao, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới...
Đảng, Nhà nước ta nỗ lực chăm lo, bảo đảm cuộc sống mọi mặt cho người dân, nhất là trẻ em_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Tiêu chí về mặt xã hội:
Một là, người dân đều được hưởng các dịch vụ xã hội ở mức độ ngày càng hài lòng.
Nhận diện đầu tiên về mặt xã hội là những ưu việt trong chính sách xã hội, những cơ hội, mức độ hài lòng của người dân trong thụ hưởng các chính sách, dịch vụ xã hội. Đó là dịch vụ y tế có chất lượng và mang tính phổ cập, không phân biệt thu nhập, địa lý hay tầng lớp; đó là nền giáo dục toàn diện, dễ tiếp cận đối với mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp; đó là hệ thống an sinh xã hội hiệu quả, bao gồm hỗ trợ người cao tuổi, người thất nghiệp, người gặp khó khăn, và các nhóm dễ bị tổn thương…; đó là hệ thống hạ tầng công cộng, nước sạch, điện, viễn thông, nhà ở, được xây dựng và phát triển đầy đủ, tiện nghi, dễ tiếp cận, đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt và làm việc của người dân; đó là môi trường sống được bảo vệ, bao gồm xử lý chất thải, cung cấp không khí trong lành, và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; đó là đời sống văn hóa tinh thần phong phú với các dịch vụ xã hội về văn hóa, nghệ thuật và giải trí đa dạng, dễ tiếp cận.
Hai là, công bằng xã hội, bình đẳng xã hội ngày càng được thực thi hiệu quả.
Công bằng, bình đẳng là cơ sở nền tảng của đồng thuận, đoàn kết và tiến bộ xã hội. Điều 1, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng tư sản Pháp đã ghi rõ chân lý: “Con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói, “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”(13). Công bằng mà Việt Nam muốn hướng tới là công bằng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng xóa bỏ bất bình đẳng, bất công. Công bằng xã hội chủ nghĩa cũng đề cao tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”, tức là giúp đỡ các cộng đồng, cá nhân yếu thế.
Để thực hiện mục tiêu công bằng và bình đẳng cho mọi người, không phân biệt về giới tính, tôn giáo, sắc tộc hoặc địa vị xã hội…, trong tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội; trong bảo đảm các quyền, Nhà nước đã thực hiện vai trò điều tiết để khắc phục tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, kiên quyết loại bỏ tham nhũng, “lợi ích nhóm” và các hiện tượng làm giàu phi pháp, bảo đảm hài hòa lợi ích cho nhân dân lao động, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội toàn diện, nhiều tầng nấc, chú ý đến các đối tượng bị tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu,... Nhiều kỳ đại hội đã nhấn mạnh, đặc biệt Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa hơn yêu cầu thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(14); “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”(15); “Đảng, Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(16). Đây chính là những cơ sở chính trị - pháp lý được xây dựng để người dân tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, là cơ hội, điều kiện để người dân tự bảo đảm quyền và lợi ích của chính mình.
Ba là, xã hội văn minh khi môi trường được bảo vệ.
Ba trụ cột phát triển bền vững được Liên hợp quốc đưa ra và cũng được Việt Nam xác định trong chiến lược tăng trưởng nhanh, bền vững là kinh tế - xã hội và môi trường. Trong gần 40 năm qua, Việt Nam đã có những nỗ lực trong bảo vệ môi trường sinh thái, các tiêu chí liên quan đến môi trường được lồng ghép, được coi là một nội dung đánh giá trước khi đưa ra các quyết định liên quan đến các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Ở một số nơi, các nguồn lực đầu tư được ưu tiên cho mục đích bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng từng bước xây dựng các nguyên tắc căn bản về bảo vệ môi trường, bao gồm thái độ trong khai thác, sử dụng tài nguyên, phát triển kinh tế, sử dụng năng lượng tái tạo; trong ý thức bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sống từ môi trường không khí, nước, đất,…; trong ý thức ứng phó với biến đổi khí hậu,…
Tiêu chí về mặt văn hóa, con người:
Một là, có nền văn hóa phát triển, đóng góp vào nền văn minh nhân loại.
Sự phồn vinh của xã hội thể hiện trên cả hai mặt là kinh tế - vật chất và văn hóa - tinh thần. Trước đây, quan niệm phổ biến cho rằng yếu tố trước hết là phải mạnh về kinh tế vì đây là “gốc rễ”, điều kiện cho sự phát triển về mọi mặt của xã hội. Nhưng trong bối cảnh mới hiện nay, quan niệm coi yếu tố kinh tế phải được phát triển đồng thời với văn hóa mới thực sự là “gốc rễ”, là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của xã hội - đây cũng là một biểu hiện căn cốt của xã hội văn minh trong bối cảnh, tình hình mới.
Trong kỷ nguyên mới, các nhận thức mới về xã hội văn minh gắn liền với những nhận thức mới về đề cao giá trị đạo đức, giá trị yêu nước, giá trị hạnh phúc, về thụ hưởng gắn với công bằng, bình đẳng trong trách nhiệm xã hội và cơ hội phát triển toàn diện con người; với yêu cầu phát triển của xã hội, với nhu cầu của con người trong xã hội hiện đại;…
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi ý về hệ giá trị văn hóa gồm các thành tố: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học. Có thể nói, trong bối cảnh hiện nay, cùng với các giá trị quốc gia, giá trị con người,… đây là những giá trị cốt lõi, tiêu biểu, bám sát vào điều kiện thực tiễn của đất nước, phù hợp với xu hướng thế giới.
Hai là, con người có cơ hội phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và ngày càng cảm thấy hạnh phúc.
Đối với sự phát triển bền vững, thì nhân tố con người mang tính quyết định. Và những biểu hiện của con người khi đạt đến sự phát triển toàn diện là họ tạo ra một môi trường xã hội luôn hiện diện sự nhân ái, nơi tình thương, lòng trắc ẩn, sự bao dung là những phẩm chất cao đẹp trở thành phổ biến.
Trong khi luật pháp không thể bao quát được mọi vấn đề của đời sống xã hội, nên bên cạnh các yếu tố pháp lý, các ranh giới, khuôn khổ đạo đức trở thành một hành lang “pháp lý mềm”, và với dân tộc vốn giàu tình nhân ái như Việt Nam thì càng đặc biệt hiệu quả. Trong những năm qua, đặc biệt trong ba nhiệm kỳ đại hội gần đây (đại hội XI, XII, XIII), vấn đề phát triển con người toàn diện được đặc biệt đề cao, coi trọng và gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Xã hội văn minh khi trong xã hội con người luôn cảm thấy hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Hạnh phúc trước hết là hạnh phúc của nhân dân lao động và một đảng chân chính cách mạng “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(17). Trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn xác định vì con người, vì hạnh phúc con người: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội mà con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Trong xã hội hiện đại, giá trị “hạnh phúc” càng trở thành yếu tố nhận diện không thể thiếu trong bộ tiêu chí nhận diện xã hội văn minh. Trong Văn kiện Đại hội XIII, hạnh phúc của nhân dân đã trở thành một trong những tư tưởng chủ đạo, chi phối từ mục tiêu, đến nhiệm vụ trong hoạch định chiến lược phát triển đất nước. Nhận thức mới về hạnh phúc trong thời kỳ mới hiện nay thể hiện sự kế thừa “dòng chảy” văn minh nhân loại, kế thừa có sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc. Đồng thời thể hiện bản chất ưu việt, nhân văn của chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu hướng chung của nhân loại, nói cách khác, đó là sự phát triển đúng theo quy luật lịch sử - tự nhiên. Giá trị hạnh phúc là tiêu chí không thể thiếu của xã hội văn minh mà Việt Nam cũng như toàn nhân loại đang hướng tới.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi ý về hệ giá trị quốc gia gồm các thành tố: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Soi chiếu với thực tiễn trong nước và thế giới hiện nay, với xu thế trong tương lai, thì các yếu tố trên cho dù có được đề cập một cách trực tiếp hay không đều là những yếu tố không thể thiếu để nhận diện một xã hội văn minh.
Nhìn chung, một số tiêu chí nhận diện xã hội văn minh mà Việt Nam đang nỗ lực dựng xây chính là những kết quả quan trọng đạt được sau gần 40 năm đổi mới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Các tiêu chí này không chỉ là mục tiêu cần đạt được mà còn là phương hướng và định hướng cho sự phát triển lâu dài của Việt Nam./.
----------------------------
* Bài viết là sản phẩm của Đề tài cấp bộ trọng điểm KHTCCS.TĐ (2024)-06, “Thực hiện mục tiêu “văn minh” trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra”, của Tạp chí Cộng sản, do TS Nguyễn Thị Mai Anh làm Chủ nhiệm.
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn